Sưu tầm online Lời dẫn: Có vài điều nghe như "lạ lẫm" nhưng nếu ai thích thì thực hành - Không thích hay không tin thì tùy ý - Em shia sẽ vì thấy có thể cần thiết cho bá tánh biết về Ấn Quán Âm mà em học đưọc. Có thầy đến giảng ở chùa Minh Đăng Quang Houston Texas năm 2010 - Tôi nghe ông lập lại một điều mà tôi nghe hồi còn nhỏ về cách bắt Ấn và THẢ Ấn - Thầy dạy bắt Ấn Quán Âm (Tay Phải). (NHỚ Để ý TRƯỚC khi thả Ấn (buông tay) NÊN đưa tay qua khỏi đầu quàng sau ót một cái trước khi thà Ấn ra). Rất nhiều người KHÔNG biết điều này. NÊN khi Thả Ấn thì cứ buông tay THẢ MÀ KHÔNG ĐƯA TAY CÒN BẮT ẤN QUA KHỎI ĐẦU TRƯỚC KHI BUÔNG ẤN - Và điều này có thể làm cho các chư vị chư thiên "té ngã" Khi VÔ TÌNH ĐI NGANG qua ta lúc ta đang THẢ ẤN QUÁN ÂM. (Ấn Quán Âm rất linh nghiệm và mạnh lực - "Họ, sẽ (dĩ nhiên) không hài lòng. Chuyện kế tiếp là do Tự Ngã (bản ngã) của mỗi vị - Có vị sẽ KHÔNG phản ứng chi hết. Có vị sẽ..... phản ứng (Tùy bản ngã của vị đó). Cũng giống như khi bị muỗi đốt, có người ra tay "bóp" một phát chết tươi con muỗi, cũng có người phủi hay hất cho nó bay đi. - Người đối với con muỗi cũng như các vị chư thiên đối với người. Người KHÔNG thấy Chư Thiên nhưng họ thấy ta... Con muỗi KHÔNG thấy nguời, nhưng con người THẤY con muỗi. Đối với muỗi nguời có thề phản ứng theo bản ngã, cũng như với Người, các vị chư thiên họ phản ứng theo lý tánh của họ. *** (Chư vị Chư Thiên cũng như con người, Họ chỉ TU bậc cao hơn người, nên có phép cao hơn người, chứ chưa phải là hiển thánh hay bồ tát) - Lời Pháp của vị thầy giảng đó. (Ở chùa Minh Đăng Quang - event Phật Ngọc 2010)
Án Ma Ni Bát Di Hồng
(OM MANI PADME HUM)
Tam Tạng Pháp Sư Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng vào năm 1971
Nếu quý vị có thể thường xuyên trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh thì sẽ chiêu cảm được sáu đạo ánh sáng có công năng biến đổi sự tối tăm của sáu nẻo luân hồi trở nên sáng rạng
Sáu chữ nầy gọi là “Chú Lục Tự Đại Minh”, mỗi chữ đều có thể phóng ra một luồng ánh sáng.
Mật tông chuyên nghiên cứu về lời và ý nghĩa của thần chú. Phật giáo phân thành năm tông phái là: Thiền tông, Giáo tông, Luật tông, Mật tông và Tịnh Độ tông. Thiền tông chuyên về tham thiền tĩnh tọa; Giáo tông chuyên về giảng kinh thuyết pháp; Luật tông thì tu trì, nghiêm tịnh giới luật, làm mô phạm trong ba cõi. Về Mật tông, thì “mật” là bí mật, là “không biết lẫn nhau” (hỗ bất tương tri). Tịnh Độ tông thì chuyên trì danh hiệu, niệm sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Đà Phật”.
Trong năm tông phái nầy, có người cho rằng Thiền tông là hơn hết; có người lại cho Giáo tông hay nhất; lại có người cho Luật tông là đứng đầu; người tu theo Mật tông thì nói Mật tông của mình là cao siêu nhất; người tu theo pháp môn Tịnh Độ thì nói pháp môn Tịnh Độ là số một, không gì sánh bằng. Trên thực tế, các pháp đều bình đẳng, không có cao thấp—“thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ”. Cho rằng một pháp nào đó tối thắng, chẳng qua chỉ là cái thấy của cá nhân, mình thích tông nào thì cho tông đó là nhất.
Bây giờ chúng ta đang nói về Mật tông. Theo cách hiểu thông thường của mọi người thì Mật tông là Lạt Ma giáo. Kỳ thực, Mật tông không phải là cái gì bí mật. Trong Hiển giáo thì Hiển-Mật viên thông—trong Hiển giáo cũng có Mật giáo; như Chú Đại Bi, Chú Lục Tự Đại Minh đều là “mật” cả. Chú Lăng Nghiêm lại càng “mật” hơn nữa. Nên nói “mật” chính là không biết lẫn nhau.
Người không hiểu thì cho rằng cái gì bí mật mới tốt nhất, vì nó không được truyền bá công khai. Có một số người không hiểu Phật Pháp, lại càng làm ra vẻ thần bí, bảo: “Cái nầy không thể giảng cho ông nghe được. Mật tông của tôi ấy à, không thể giảng cho ông nghe được đâu!” Quý vị không thể giảng cho người khác nghe, thì tại sao quý vị lại đề cập đến nó chứ? Tại sao quý vị lại nói: “Tôi không thể giảng cho ông nghe”? Nếu thật sự là Mật tông thì phải không nói gì cả mới đúng, tại sao quý vị còn nói: “Tôi không thể giảng cho ông nghe”? Quý vị nói rằng mình không thể giảng, song, như thế có phải là quý vị đã giảng rồi không? Đó chính là quý vị đã giảng rồi đấy! Thế tại sao còn nói là không thể giảng được? Là vì không hiểu rõ Phật Pháp, căn bản không hiểu được cái gì gọi là “Mật Tông”!
Bây giờ tôi sẽ nói cho quý vị nghe về Mật tông. Lời chú, thật ra không có gì bí mật cả. Sở dĩ được gọi là Mật tông, vì khi quý vị trì tụng lời chú, bản thân quý vị sẽ nhận được sự linh cảm mà tôi không thể biết được; khi tôi trì tụng lời chú, thì bản thân tôi sẽ có được sự linh cảm mà quý vị không thể biết được. Vì chúng ta không thể biết được công năng và sức mạnh của lời chú đối với mỗi người, cho nên gọi là Mật tông; chứ bản thân bài chú tuyệt đối không phải là Mật tông. Chính năng lực của chú mới là “mật”. Đó là ý nghĩa của Mật tông vậy.
Nếu lời chú là bí mật, thì quý vị không nên truyền cho người khác; một khi quý vị đem truyền cho người khác thì nó không còn là bí mật nữa. Cũng thế, Lục Tổ và Huệ Minh có một đoạn đối đáp như sau:
Lục Tổ đáp: "Ðiều tôi nói với ông đó chẳng phải là mật. Nếu ông phản chiếu, thì mật ấy ở ngay nơi ông."
Quý vị thấy không, đoạn đối đáp trên đã nói rất rõ ràng: Điều mà quý vị có thể nói ra thì chẳng còn là bí mật nữa. Những gì có thể trao truyền cho quý vị cũng giống như thế. Nếu là bí mật thì không nên truyền. Sự bí mật vốn ở ngay nơi quý vị, sát bên cạnh quý vị. Đây mới chính là cái được gọi là bí mật.
Tôi tin rằng ngay cả các Pháp sư của Mật tông cũng không biết cách giải thích về “mật tông” như thế nào; họ chỉ cho rằng bài chú là bí mật. Nhưng bài chú nào cũng đều có thể trao truyền cho mọi người, lời chú nào cũng đều có thể nói ra; không có bài chú nào là không thể nói ra cả! Nếu không được nói ra thì họ sẽ không có cách nào để truyền cho quý vị, có đúng vậy không nào? Chúng ta giảng chân lý nầy là vì nó có thể được truyền đạt cho quý vị, không phải là bí mật—đây không phải là Mật tông!
“Mật,” thì không có cách gì để truyền đạt. Điều bí mật chính là năng lực của bài chú. Không ai có thể nói cho quý vị biết chú nầy có năng lực gì, hoặc quý vị trì tụng thì sẽ như thế nào, như thế nào; mà “như người uống nước, nóng lạnh tự biết”—chỉ có quý vị tự mình biết mình mà thôi, người khác không thể nào biết được, do đó gọi là “mật”. Năng lực là bí mật, sự cảm ứng là bí mật, diệu dụng là bí mật, chứ không phải bài chú là bí mật! Bây giờ quý vị đều hiểu rõ rồi chứ?
Những người không hiểu rõ Phật Pháp ắt hẳn cho rằng tôi giảng không đúng. Cho dù là không đúng, tôi cũng vẫn muốn nói như vậy. Quý vị cho là tôi đúng ư? Quý vị không thể nào nói như vậy được! Bởi vì quý vị vốn hoàn toàn không hiểu gì cả, thì làm thế nào quý vị biết được là tôi hiểu!!! Tôi thì càng không hiểu gì cả; tôi còn hồ đồ hơn nữa! Có điều, trước kia sư phụ tôi đã chỉ dạy cho tôi rất rõ ràng, cho nên mới biến đổi kẻ hồ đồ này thành một người biết giảng Chú Lục Tự Đại Minh của Mật tông!
Mật tông được chia thành năm bộ—Đông, Tây , Nam, Bắc, và Trung ương. Phương Đông là bộ Kim Cang, chuyên hộ trì chánh pháp; bộ Bảo Sanh ở phương Nam; bộ Liên Hoa ở phương Tây; bộ Yết Ma ở phương Bắc và bộ Phật ở chính giữa. Nếu có thời gian quý vị hãy nghiên cứu Chú Lăng Nghiêm, trong đó có giảng về năm bộ này một cách tường tận.
Trên thế gian, nếu có một người trì niệm Chú Lăng Nghiêm thì ma vương không dám xuất hiện; nếu không có người biết trì niệm Chú Lăng Nghiêm thì ma vương trong ba ngàn đại thiên thế giới sẽ lũ lượt kéo đến thế gian. Tại sao ư? Vì không có người quản thúc chúng, năm bộ đều không hoạt động, cho nên ma vương mới dám xâm nhập thế gian. Bởi nếu có một người biết tụng Chú Lăng Nghiêm thì ma vương sẽ không dám xuất hiện, cho nên chúng tôi mong muốn có thêm nhiều người trì tụng Chú Lăng Nghiêm. Trong khoá tu học hè đầu tiên của chúng ta, trước hết, tôi đã khảo hạch xem ai có khả năng học thuộc Chú Lăng Nghiêm. Kết quả là có hai người đạt tiêu chuẩn, sau đó lại có thêm rất nhiều người có thể tụng chú được. Bây giờ tôi sẽ giảng về Chú Lục Tự Đại Minh.
Đầu tiên là chữ:
“Án”. Khi quý vị tụng chữ “Án” nầy, tất cả quỷ thần đều phải chắp tay lại. Vì sao phải chắp tay lại? Đó là giữ gìn pháp tắc, tuân theo khuôn phép. Quý vị tụng một chữ nầy, thì tất cả quỷ thần đều không dám gây rối, không dám không tuân theo mệnh lệnh. Chữ nầy có nghĩa là “tiếng dẫn” (dẫn thanh), là tiếng mở đầu dẫn tới những lời chú tiếp theo, cho nên khi đọc chú, đầu tiên đều đọc chữ nầy.
“Ma Ni” chính là “mâu ni”. “Mâu ni” là tiếng Phạn, dịch là “trí tịch,” tức là dùng trí huệ để làm sáng tỏ tất cả các đạo lý, và do đó đạt đến trạng thái tịch diệt vô sanh. Lại có thể dịch là “ly cấu,” nghĩa là rời xa tất cả bụi bặm dơ bẩn, ví như viên ngọc “như ý,” rất toàn hảo, không có chút tỳ vết. Viên bảo châu “như ý” nầy có công năng sanh trưởng tất cả công đức, có thể đáp ứng mọi sở nguyện của con người.
“Bát Di” vốn nên đọc là “Bát Đặc Di,” dịch là “quang minh viên giác”; cũng dịch là “liên hoa khai,” tức là diệu tâm của Bồ tát Quán Thế Âm, diệu tâm ấy viên mãn đầy đủ, vô ngại. Đó là chữ “bát di.”
Chữ “Hồng” có nghĩa là “xuất sanh” —tất cả mọi thứ đều có thể được sanh ra từ chữ “Hồng” nầy. Lại có nghĩa là “ủng hộ” —niệm chữ nầy thì liền cảm ứng chư hộ pháp thiện thần đến trợ giúp, che chở cho quý vị. Lại còn có nghĩa là “tiêu tai” —quý vị có tai nạn gì, tụng chữ nầy liền được tai qua nạn khỏi. Lại cũng có nghĩa là “thành tựu” —bất luận quý vị cầu nguyện điều gì, đều có thể được thành tựu như ý.
Một khi quý vị niệm Chú Lục Tự Đại Minh, thì sẽ có vô lượng chư Phật, vô lượng Bồ tát và vô số hộ pháp Kim Cang thường xuyên đến ủng hộ quý vị. Cho nên, Bồ tát Quán Thế Âm sau khi nói xong Chú Lục Tự Đại Minh nầy, liền có bảy ức đức Phật đến vây quanh, ủng hộ. Năng lực và diệu dụng của Chú Lục Tự Đại Minh không thể nghĩ bàn, sự cảm ứng đạo giao cũng không thể nghĩ bàn. Do vậy nên gọi là Mật tông. Nếu giảng chi tiết hơn thì ý nghĩa nhiều đến vô lượng vô biên, không thể nào nói cho hết được; thế nên tối nay tôi chỉ giảng sơ lược cho đại chúng nghe mà thôi.
Tôi có thể cho quý vị biết một chút về thứ thần lực bí mật không thể nói ra được. Tại sao tôi bảo là “thần lực bí mật không thể nói ra được”? Bởi vì những điều tôi nói thì chưa được một phần vạn của sự việc. Thế là thế nào? Nếu quý vị có thể thường xuyên trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh thì sẽ chiêu cảm được sáu đạo ánh sáng có công năng biến đổi sự tối tăm u ám của sáu nẻo luân hồi trở nên sáng rạng. Điều cần thiết là quý vị phải chuyên tâm trì tụng mới có thể đạt được thứ Tam-muội này. Bấy giờ, ánh sáng không chỉ chiếu khắp trong sáu nẻo luân hồi, mà cả mười Pháp giới cũng biến thành “quang minh tạng”. Tôi hy vọng mọi người dù bận rộn đến đâu cũng nên nhín chút thì giờ để trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh nầy. .
Lời dẫn: Sau khi cha mẹ bị xe tải đụng, mẹ bé bị cán, bé văng ra từ trong bụng mẹ. Mẹ bé mất, cha bị thương tật mất một chân phải. Bé cũng bị cắt mất một chân. Tuy nhiên đây là sự mầu nhiệm, mạng của bé đã cứu lại đưọc.
Sau nhiều ngày phải truyền thức ăn bằng dung dịch đạm qua đường tĩnh mạch, đến chiều nay (3.11), bé trai văng ra từ bụng mẹ đã được các bác sĩ Bệnh viện Nhi đồng 1, TP.HCM ngưng truyền thức ăn qua đường tĩnh mạch, chỉ cho bé ăn trực tiếp qua đường miệng.
Bé trai văng ra từ bụng mẹ đã ngưng không truyền thức ăn qua đường tĩnh mạch (ảnh TL)
Đây là một bước tiến triển rất đáng mừng cho sức khỏe của bé trai văng ra từ bụng mẹ.Vì trong những ngày qua, khi cho bé bú sữa qua đường miệng, khả năng đáp ứng cơ thể của bé khá tốt, các bác sĩ đã liên tục tăng lượng sữa cho bé bú trực tiếp qua đường miệng.
TS.BS Nguyễn Thanh Hùng, giám đốc Bệnh viện Nhi đồng 1 cho biết, hiện mỗi ngày bé bú được 8 lần, mỗi lần bú đến 60ml sữa. Do đó, các bác sĩ đã ngưng truyền dung dịch đạm qua đường tĩnh mạch, chỉ cho bé bú sữa.
“Với lượng sữa mà bé bú trực tiếp như trên mỗi ngày là đủ, không cần phải truyền thêm dung dịch đạm qua đường tĩnh mạch. Chúng tôi vẫn đang tiếp tục theo dõi tình trạng trên, nếu bé bú tốt thì sẽ tăng dần lượng sữa, mỗi ngày có thể tăng từ 5 đến 10ml”, bác sĩ Hùng nói.
Riêng tình trạng nhiễm trùng ở vết thương nơi khớp gối phải bị tháo của bé trai văng ra từ bụng mẹ có chuyển biến tốt hơn so với những ngày trước, nhưng theo Bệnh viện Nhi đồng 1 vẫn chưa có gì đảm bảo, vết nhiễm trùng này sẽ khỏi và bé không bị các biến chứng từ vết nhiễm trùng này.
Theo bác sĩ Ngô Ngọc Quang Minh, trưởng phòng kế hoạch tổng hợp, Bệnh viện Nhi đồng 1, TP.HCM, đối với bé sơ sinh, việc nhiễm trùng vết thương là rất khó tiên lượng. Đôi khi hôm nay vết nhiễm trùng có thể chuyển biến tốt, nhưng hôm sau có thể chuyển biến xấu do sức đề kháng của trẻ sơ sinh yếu. Điều nguy hiểm nhiễm trùng vết thương ở trẻ, nếu chuyển biến xấu có thể biến chứng sang nhiễm trùng máu hay nhiễm trùng phổi, rất nguy hiểm.
Cũng theo bác sĩ Minh, hiện bệnh viện đang cố gắng làm hết sức mình để có thể đảm bảo vết thương bị nhiễm trùng không có chuyển biến xấu.
Các bác sĩ đang tập trung sử dụng các loại kháng sinh tốt nhất để tiêm cho bé; đồng thời tiếp tục chăm sóc bé trong môi trường hồi sức đặc biệt, hạn chế người nhà vào thăm để tránh gây ra tình trạng nhiễm trùng cho bé nặng hơn.
Đạo phật là đạo an lành, khuyên giữ giới. Không Sát sanh.
Hồ Chí Minh là tên sát sanh, một tên dziệt chủng nổi tiếng thế giới. Y giết cả triệu sinh mạng không gớm tay với vài hàng nước mắt cá sấu chảy dài phí phạm mà hôm nay lại "Đắc Đạo" leo tuốt lên bàn thờ ngồi chễm chệ trong khi các "ngài" quỳ cung kính bái lạy.
Có ai có thể giải thích hợp tình hợp lý vu này không ?
Tomoe along the path of practice, it is crucial to know who we are. Are we good or bad? We may not know for sure. Pretending to know who we are when we don’t is a real difficulty.
We may think we are a good person, but that may not be true. We could be like someone who is watering a flower, and from the outside, this looks like a good thing, but actually, the person is pouring hot water on the flower. For ourselves and others, this fake good person could be more dangerous than someone, or some part of ourselves, that we know to be negative. So it’s important to examine ourselves carefully.
~The Gyalwang Karmapa Imparts the Essence of Milarepa’s Life Story
Nam Mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật
Phạn ngữ - Sanskrit Tad ya thā oṃ bhai ṣaj ye bhai ṣaj ye ma hā bhai ṣaj ye ra ja sa mud ga te svā hā Phạn âm chữ Việt: Tê qua tha - Om Bế ka chê Bế ka chê Maha Bế ka chê Ra cha sa mê ga tê Sô Hà (Soa Hà)
____________________________________________ Việt âm chữ Việt: Đát điệt tha - Án Bệ sát thệ Bệ sát thệ Bệ sát xả Tam một Yết đế Tóa ha
Nghĩa: Cung Kính Đãnh Lễ Bậc:
Dứt Trừ các thứ khổ nơi thân tâm, Dứt Trừ Sự Chướng Ngại Giải Thoát của Thanh Văn Thừa. Dứt Trừ Nhân các thứ khổ nơi thân tâm, Dứt Trừ Sự Chướng Ngại Giải Thoát của Duyên Giác Thừa. Dứt Trừ vi tế hoặc, Dứt Trừ Sự Chướng Ngại Giải Thoát của Bồ Tát Thừa. Bậc Vô Thượng Y Vương khiến các nguyện đều thành tựu.
Tibetan Buddhist Mantra - To eliminate not only pain of diseases but also help in overcoming the major inner sickness of attachment, hatred, jealousy, desire, greed and ignorance.
The Twelve Vows of the Medicine Buddha upon attaining Enlightenment, according to the Medicine Buddha Sutra are:
To illuminate countless realms with his radiance, enabling anyone to become a Buddha just like him. To awaken the minds of sentient beings through his light of lapis lazuli. To provide the sentient beings with whatever material needs they require. To correct heretical views and inspire beings toward the path of the Bodhisattva. To help beings follow the Moral Precepts, even if they failed before. To heal beings born with deformities, illness or other physical sufferings. To help relieve the destitute and the sick. To help women who wish to be reborn as men achieve their desired rebirth. To help heal mental afflictions and delusions. To help the oppressed be free from suffering. To relieve those who suffer from terrible hunger and thirst. To help clothe those who are destitute and suffering from cold and mosquitoes.
In 563 or 566 B.C.E., a prince was born to a noble family of the Shakya clan, in a very beautiful park called Lumbini Grove, which lay in the foothills of the Himalayas (in present-day southern Nepal). This beautiful park was not far from the capital city of the Shakya kingdom, Kapilavastu. The prince’s father, King Shuddhodana, named his son Siddhartha. He was a member of the Kshatriya, or royal warrior caste, and his clan lineage, the Gautamas, was ancient and pure. His mother was Mahamaya or Mayadevi, daughter of a powerful Shakya noble, Suprabuddha. Before the conception of Siddhartha, Queen Mahamaya dreamed that a white elephant, extraordinary and utterly beautiful, entered her body. Soon after the birth, soothsayers predicted that the young prince would become either a Chakravartin, a universal monarch, or an “awakened one,” a buddha. So from the very beginning of his birth, he showed signs of perfection.
PRINCEHOOD
Seven days after the birth, Queen Mahamaya died; her sister, Siddhartha’s aunt, Mahaprajapati Gautami, who was also married to King Suddhodana, thereafter raised and brought up Siddhartha like her own child, with great care and love, in the wealthy circumstances of a noble family.
His father naturally wanted his son to be his successor and provided him the very best possible education and pleasurable occupations. He tried to prevent Siddhartha from coming into contact with any religious or spiritual path in order to steer him toward becoming the next king of the Shakyas.
As a young prince, Siddhartha was fully educated and mastered the arts and sciences of his day, including even the art of war and other trainings, displaying a sharp intellect and the strength and power of a great physique. When the young prince reached the age of sixteen, he married Yashodhara and engaged in the pleasures of the world. He continued to relish the comforts of the palaces, gardens, and varieties of wealth of the royal lifestyle.
RENUNCIATION In his late twenties, Prince Siddhartha encountered the “four signs” during excursions from the palace. They made an extremely strong impression on him. These signs were: an old man, a sick person, a corpse, and a monk or a yogin. Through them he realized that the vanity of youth, as well as one’s health, and even life, may end at any time; furthermore, he realized that the only way out of this suffering world of samsara was through finding and following the right spiritual path.
At twenty-nine, after the birth of his son, Rahula, Siddhartha left the palace and kingdom behind and engaged in an ascetic path. He became a homeless, wandering yogi, seeking the truth for the sake of all sentient beings. He began to practice, mainly under the guidance of two ascetic teachers, Arada Kalama and Rudraka Ramaputra.
ENLIGHTENMENT When Siddhartha realized that he was not reaching his goal, liberation, he gave up the ascetic way of life and turned to meditation, deciding to seek enlightenment on his own. After six years of hardship and practicing near Nairanjana River, he began to travel and gradually came to the region of Gaya. Siddhartha went to Bodhgaya, where he sat under what was later to be known as the Bodhi-tree, vowing to exert himself in his meditation until he reached his goal of enlightenment.
After forty-nine days, at the age of thirty-five, Prince Siddhartha attained complete enlightenment, or buddhahood, overcoming all the obscurations and temptations of Mara. At this point, Siddhartha was a buddha, a fully awakened or enlightened one, and he knew that for him, there would be no further rebirth in samsaric realms.
TEACHING AND BENEFITING BEINGS Seeing that what he had achieved was not possible to communicate directly, he remained silent for seven weeks. Buddha gave his first discourse in Deer Park in Benares, which is known as “the first turning of the wheel of dharma.” In this discourse, he taught the four noble truths, the interdependent nature, and the law of karma, at the request of Indra and Brahma. His earlier five ascetic companions became his first disciples and began to form the bhikshu (monastic) sangha. At Vulture Peak Mountain near Rajagriha, Buddha turned the second wheel of dharma, in which he taught the nature of all phenomena as being shunyata or emptiness and anatma or selflessness. There followed a period of many years of teaching at a variety of places, such as Vaishali. The teachings of this period are known as the third turning of the wheel of dharma, in which Buddha taught a variety of subjects, including the notion that all sentient beings possess tathagata-garbha – the basic heart of buddha.
Through these teachings, Buddha showed the way that leads all beings to the experience of awakening and liberation from samsara. This demonstrates clearly his limitless compassion and loving-kindness towards all beings who are looking for liberation and freedom from the realms of samsaric existences.
King Bimbisara of Magadha became a follower of Buddha and offered a monastery near Rajagriha, the capital of Magadha, which became very important historically for the development of the sangha. Buddha spent a great deal of time mainly in the region of Rajagriha and Vaishali, moving from place to place and living on alms. The number of his followers grew very fast. Buddha’s most important students were Kashyapa, Shariputra, Maudgalyayana, and Ananda. Buddha later founded orders of nuns, or bhikshuni, and had many followers and establishments in these regions.
Since he was born as the prince of the Shakyas, after his enlightenment he was known as “the Shakyamuni” or “the Sage of The Shakyas,” and from his clan name, he was later called Gautama Buddha.
During his life, his cousin, Devadatta, who had always been jealous of what Siddhartha had achieved, sought to become the head of the Buddha’s sangha or community. Devadatta planned to destroy the Buddha. Though he did not succeed, he brought about a schism among the monastic communities in Vaisali that caused great harm to the sangha’s spiritual development.
PARINIRVANA At the age of eighty, Shakyamuni Buddha empowered his close disciple, Kashyapa, as his regent to continue the sangha’s activities. Lying on his right side and facing west, Buddha entered into parinirvana. (Other accounts and some sutras state that Buddha partook of spoiled food, which caused him to pass away.) His relics are distributed and enshrined in seven stupas and elsewhere.
Thường thì ở trong chùa chư Tăng Ni hay tụng Chú Lăng Nghiêm và Ðại Bi Thập Chú vào buổi khuya. Vậy xin hỏi không biết hàng cư sĩ tại gia chúng con có trì tụng được không?
Ðáp: Tất nhiên là được. Chỉ sợ chúng ta lười biếng không tụng trì đó thôi. Tụng kinh trì chú là điều rất tốt. Như đã nói, sở dĩ có chú Lăng Nghiêm là do Ngài A Nan bị mắc nạn Ma đăng già, nên Hóa thân Phật nói thần chú và Bồ tát Văn Thù lãnh sứ mạng tụng chú để giải nạn cho tôn giả A Nan. Chính vì lý do đó, nên trong các thiền môn thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, còn gọi là Phật giáo Phát triển ( Ðại thừa ), đều có trì tụng vào mỗi buổi khuya. Tại sao không trì tụng vào những thời điểm khác mà phải trì tụng vào buổi khuya? Trong thiền môn có hai thời khóa căn bản, gọi là nhị thời khóa tụng. Buổi tối là thời Tịnh độ, tức tụng
Kinh A Di Ðà. Buổi khuya thì tụng năm đệ chú Lăng Nghiêm và Ðại bi thập chú. Vì buổi khuya khí trời mát mẻ trong lành và cảnh vật yên tĩnh. Thần khí con người mới ngủ thức dậy cũng tỉnh táo mạnh mẽ hơn. Thần chú có năng lực rất mạnh, nên rất thích hợp với sự định tỉnh của thời điểm nầy. Do đó, người tụng chú ngoài phần tự lực nhiếp tâm ra, còn có sức gia hộ mạnh mẽ của long thần hộ pháp.
Như thế, thì bất luận Phật tử xuất gia hay tại gia, tất cả đều có thể trì tụng được hết. Phật tử đừng có lo ngại chi cả. Ðiều quan trọng là khi trì tụng chú, chúng ta cần phải nhiếp tâm thật kỹ. Như thế, thì rất dễ nhiếp phục vọng tưởng phiền não. Phiền não vọng tưởng không có, thì ngay lúc đó tâm ta sẽ được an định thanh thoát, nhẹ nhàng. Ðó là ta đã có được hạnh phúc phước báo rất lớn vậy.