Thursday, November 6, 2014

Án Ma Ni Bát Di Hồng - OM MANI PADME HUM - Lục Đại Thần Chú

Sưu tầm online


Lời dẫn: Có vài điều nghe như "lạ lẫm" nhưng nếu ai thích thì thực hành - Không thích hay không tin thì tùy ý - Em shia sẽ vì thấy có thể cần thiết cho bá tánh biết về Ấn Quán Âm mà em học đưọc. 

Có thầy đến giảng ở chùa Minh Đăng Quang Houston Texas năm 2010 - Tôi nghe ông lập lại  một điều mà tôi nghe hồi còn nhỏ về cách bắt Ấn và THẢ Ấn - Thầy dạy bắt Ấn Quán Âm (Tay Phải). (NHỚ Để ý TRƯỚC  khi thả Ấn (buông tay) NÊN  đưa tay qua khỏi đầu quàng sau ót một cái trước khi thà Ấn ra).

Rất nhiều người KHÔNG biết điều này. NÊN khi Thả Ấn thì cứ buông tay THẢ MÀ KHÔNG ĐƯA TAY CÒN BẮT ẤN QUA KHỎI ĐẦU TRƯỚC KHI BUÔNG ẤN  - Và điều này có thể làm cho các chư vị chư thiên "té ngã" Khi VÔ TÌNH ĐI NGANG qua ta lúc ta đang THẢ ẤN QUÁN ÂM. (Ấn Quán Âm rất linh nghiệm và mạnh lực - "Họ, sẽ (dĩ nhiên) không hài lòng. Chuyện kế tiếp là do Tự Ngã (bản ngã)  của mỗi vị  - Có vị sẽ KHÔNG phản ứng chi hết. Có vị sẽ..... phản ứng (Tùy bản ngã của vị đó).

Cũng giống như khi bị muỗi đốt, có người ra tay "bóp" một phát chết tươi con muỗi, cũng có người phủi hay hất cho nó bay đi. - Người  đối với con muỗi cũng như các vị chư thiên đối với người. 

Người KHÔNG thấy Chư Thiên nhưng họ thấy ta... Con muỗi KHÔNG thấy nguời, nhưng con người THẤY con muỗi. Đối với muỗi nguời có thề phản ứng theo bản ngã, cũng như với Người, các vị chư thiên họ phản ứng theo lý tánh của họ. 


*** (Chư vị Chư Thiên cũng như con người, Họ chỉ TU bậc cao hơn người, nên có phép cao hơn người, chứ chưa phải là hiển thánh hay bồ tát) - Lời Pháp của vị thầy giảng đó. (Ở chùa Minh Đăng Quang - event Phật Ngọc 2010) 




Án Ma Ni Bát Di Hồng
(OM MANI PADME HUM)

Tam Tạng Pháp Sư Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng vào năm 1971



Nếu quý vị có thể thường xuyên trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh thì sẽ chiêu cảm được sáu đạo ánh sáng có công năng biến đổi sự tối tăm của sáu nẻo luân hồi trở nên sáng rạng

Sáu chữ nầy gọi là “Chú Lục Tự Đại Minh”, mỗi chữ đều có thể phóng ra một luồng ánh sáng.

Mật tông chuyên nghiên cứu về lời và ý nghĩa của thần chú. Phật giáo phân thành năm tông phái là: Thiền tông, Giáo tông, Luật tông, Mật tông và Tịnh Độ tông. Thiền tông chuyên về tham thiền tĩnh tọa; Giáo tông chuyên về giảng kinh thuyết pháp; Luật tông thì tu trì, nghiêm tịnh giới luật, làm mô phạm trong ba cõi. Về Mật tông, thì “mật” là bí mật, là “không biết lẫn nhau” (hỗ bất tương tri). Tịnh Độ tông thì chuyên trì danh hiệu, niệm sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Đà Phật”.

Trong năm tông phái nầy, có người cho rằng Thiền tông là hơn hết; có người lại cho Giáo tông hay nhất; lại có người cho Luật tông là đứng đầu; người tu theo Mật tông thì nói Mật tông của mình là cao siêu nhất; người tu theo pháp môn Tịnh Độ thì nói pháp môn Tịnh Độ là số một, không gì sánh bằng. Trên thực tế, các pháp đều bình đẳng, không có cao thấp—“thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ”. Cho rằng một pháp nào đó tối thắng, chẳng qua chỉ là cái thấy của cá nhân, mình thích tông nào thì cho tông đó là nhất.

Bây giờ chúng ta đang nói về Mật tông. Theo cách hiểu thông thường của mọi người thì Mật tông là Lạt Ma giáo. Kỳ thực, Mật tông không phải là cái gì bí mật. Trong Hiển giáo thì Hiển-Mật viên thông—trong Hiển giáo cũng có Mật giáo; như Chú Đại Bi, Chú Lục Tự Đại Minh đều là “mật” cả. Chú Lăng Nghiêm lại càng “mật” hơn nữa. Nên nói “mật” chính là không biết lẫn nhau.

Người không hiểu thì cho rằng cái gì bí mật mới tốt nhất, vì nó không được truyền bá công khai. Có một số người không hiểu Phật Pháp, lại càng làm ra vẻ thần bí, bảo: “Cái nầy không thể giảng cho ông nghe được. Mật tông của tôi ấy à, không thể giảng cho ông nghe được đâu!” Quý vị không thể giảng cho người khác nghe, thì tại sao quý vị lại đề cập đến nó chứ? Tại sao quý vị lại nói: “Tôi không thể giảng cho ông nghe”? Nếu thật sự là Mật tông thì phải không nói gì cả mới đúng, tại sao quý vị còn nói: “Tôi không thể giảng cho ông nghe”? Quý vị nói rằng mình không thể giảng, song, như thế có phải là quý vị đã giảng rồi không? Đó chính là quý vị đã giảng rồi đấy! Thế tại sao còn nói là không thể giảng được? Là vì không hiểu rõ Phật Pháp, căn bản không hiểu được cái gì gọi là “Mật Tông”!

Bây giờ tôi sẽ nói cho quý vị nghe về Mật tông. Lời chú, thật ra không có gì bí mật cả. Sở dĩ được gọi là Mật tông, vì khi quý vị trì tụng lời chú, bản thân quý vị sẽ nhận được sự linh cảm mà tôi không thể biết được; khi tôi trì tụng lời chú, thì bản thân tôi sẽ có được sự linh cảm mà quý vị không thể biết được. Vì chúng ta không thể biết được công năng và sức mạnh của lời chú đối với mỗi người, cho nên gọi là Mật tông; chứ bản thân bài chú tuyệt đối không phải là Mật tông. Chính năng lực của chú mới là “mật”. Đó là ý nghĩa của Mật tông vậy.
Nếu lời chú là bí mật, thì quý vị không nên truyền cho người khác; một khi quý vị đem truyền cho người khác thì nó không còn là bí mật nữa. Cũng thế, Lục Tổ và Huệ Minh có một đoạn đối đáp như sau:

Huệ Minh hỏi: “Ngoài mật ngữ mật ý Ngài vừa giảng, còn mật ý nào nữa chăng?”
Lục Tổ đáp: "Ðiều tôi nói với ông đó chẳng phải là mật. Nếu ông phản chiếu, thì mật ấy ở ngay nơi ông."

Quý vị thấy không, đoạn đối đáp trên đã nói rất rõ ràng: Điều mà quý vị có thể nói ra thì chẳng còn là bí mật nữa. Những gì có thể trao truyền cho quý vị cũng giống như thế. Nếu là bí mật thì không nên truyền. Sự bí mật vốn ở ngay nơi quý vị, sát bên cạnh quý vị. Đây mới chính là cái được gọi là bí mật.

Tôi tin rằng ngay cả các Pháp sư của Mật tông cũng không biết cách giải thích về “mật tông” như thế nào; họ chỉ cho rằng bài chú là bí mật. Nhưng bài chú nào cũng đều có thể trao truyền cho mọi người, lời chú nào cũng đều có thể nói ra; không có bài chú nào là không thể nói ra cả! Nếu không được nói ra thì họ sẽ không có cách nào để truyền cho quý vị, có đúng vậy không nào? Chúng ta giảng chân lý nầy là vì nó có thể được truyền đạt cho quý vị, không phải là bí mật—đây không phải là Mật tông!

“Mật,” thì không có cách gì để truyền đạt. Điều bí mật chính là năng lực của bài chú. Không ai có thể nói cho quý vị biết chú nầy có năng lực gì, hoặc quý vị trì tụng thì sẽ như thế nào, như thế nào; mà “như người uống nước, nóng lạnh tự biết”—chỉ có quý vị tự mình biết mình mà thôi, người khác không thể nào biết được, do đó gọi là “mật”. Năng lực là bí mật, sự cảm ứng là bí mật, diệu dụng là bí mật, chứ không phải bài chú là bí mật! Bây giờ quý vị đều hiểu rõ rồi chứ?

Những người không hiểu rõ Phật Pháp ắt hẳn cho rằng tôi giảng không đúng. Cho dù là không đúng, tôi cũng vẫn muốn nói như vậy. Quý vị cho là tôi đúng ư? Quý vị không thể nào nói như vậy được! Bởi vì quý vị vốn hoàn toàn không hiểu gì cả, thì làm thế nào quý vị biết được là tôi hiểu!!! Tôi thì càng không hiểu gì cả; tôi còn hồ đồ hơn nữa! Có điều, trước kia sư phụ tôi đã chỉ dạy cho tôi rất rõ ràng, cho nên mới biến đổi kẻ hồ đồ này thành một người biết giảng Chú Lục Tự Đại Minh của Mật tông! 

Mật tông được chia thành năm bộ—Đông, Tây , Nam , Bắc, và Trung ương. Phương Đông là bộ Kim Cang, chuyên hộ trì chánh pháp; bộ Bảo Sanh ở phương Nam; bộ Liên Hoa ở phương Tây; bộ Yết Ma ở phương Bắc và bộ Phật ở chính giữa. Nếu có thời gian quý vị hãy nghiên cứu Chú Lăng Nghiêm, trong đó có giảng về năm bộ này một cách tường tận.

Trên thế gian, nếu có một người trì niệm Chú Lăng Nghiêm thì ma vương không dám xuất hiện; nếu không có người biết trì niệm Chú Lăng Nghiêm thì ma vương trong ba ngàn đại thiên thế giới sẽ lũ lượt kéo đến thế gian. Tại sao ư? Vì không có người quản thúc chúng, năm bộ đều không hoạt động, cho nên ma vương mới dám xâm nhập thế gian. Bởi nếu có một người biết tụng Chú Lăng Nghiêm thì ma vương sẽ không dám xuất hiện, cho nên chúng tôi mong muốn có thêm nhiều người trì tụng Chú Lăng Nghiêm. Trong khoá tu học hè đầu tiên của chúng ta, trước hết, tôi đã khảo hạch xem ai có khả năng học thuộc Chú Lăng Nghiêm. Kết quả là có hai người đạt tiêu chuẩn, sau đó lại có thêm rất nhiều người có thể tụng chú được. Bây giờ tôi sẽ giảng về Chú Lục Tự Đại Minh.

Đầu tiên là chữ:

        “Án”. Khi quý vị tụng chữ “Án” nầy, tất cả quỷ thần đều phải chắp tay lại. Vì sao phải chắp tay lại? Đó là giữ gìn pháp tắc, tuân theo khuôn phép. Quý vị tụng một chữ nầy, thì tất cả quỷ thần đều không dám gây rối, không dám không tuân theo mệnh lệnh. Chữ nầy có nghĩa là “tiếng dẫn” (dẫn thanh), là tiếng mở đầu dẫn tới những lời chú tiếp theo, cho nên khi đọc chú, đầu tiên đều đọc chữ nầy.

Ma Ni” chính là “mâu ni”. “Mâu ni” là tiếng Phạn, dịch là “trí tịch,” tức là dùng trí huệ để làm sáng tỏ tất cả các đạo lý, và do đó đạt đến trạng thái tịch diệt vô sanh. Lại có thể dịch là “ly cấu,” nghĩa là rời xa tất cả bụi bặm dơ bẩn, ví như viên ngọc “như ý,” rất toàn hảo, không có chút tỳ vết. Viên bảo châu “như ý” nầy có công năng sanh trưởng tất cả công đức, có thể đáp ứng mọi sở nguyện của con người.

Bát Di” vốn nên đọc là “Bát Đặc Di,” dịch là “quang minh viên giác”; cũng dịch là “liên hoa khai,” tức là diệu tâm của Bồ tát Quán Thế Âm, diệu tâm ấy viên mãn đầy đủ, vô ngại. Đó là chữ “bát di.”

Chữ “Hồng” có nghĩa là “xuất sanh” —tất cả mọi thứ đều có thể được sanh ra từ chữ “Hồng” nầy. Lại có nghĩa là “ủng hộ” —niệm chữ nầy thì liền cảm ứng chư hộ pháp thiện thần đến trợ giúp, che chở cho quý vị. Lại còn có nghĩa là “tiêu tai” —quý vị có tai nạn gì, tụng chữ nầy liền được tai qua nạn khỏi. Lại cũng có nghĩa là “thành tựu” —bất luận quý vị cầu nguyện điều gì, đều có thể được thành tựu như ý.






Một khi quý vị niệm Chú Lục Tự Đại Minh, thì sẽ có vô lượng chư Phật, vô lượng Bồ tát và vô số hộ pháp Kim Cang thường xuyên đến ủng hộ quý vị. Cho nên, Bồ tát Quán Thế Âm sau khi nói xong Chú Lục Tự Đại Minh nầy, liền có bảy ức đức Phật đến vây quanh, ủng hộ. Năng lực và diệu dụng của Chú Lục Tự Đại Minh không thể nghĩ bàn, sự cảm ứng đạo giao cũng không thể nghĩ bàn. Do vậy nên gọi là Mật tông. Nếu giảng chi tiết hơn thì ý nghĩa nhiều đến vô lượng vô biên, không thể nào nói cho hết được; thế nên tối nay tôi chỉ giảng sơ lược cho đại chúng nghe mà thôi.

Tôi có thể cho quý vị biết một chút về thứ thần lực bí mật không thể nói ra được. Tại sao tôi bảo là “thần lực bí mật không thể nói ra được”? Bởi vì những điều tôi nói thì chưa được một phần vạn của sự việc. Thế là thế nào? Nếu quý vị có thể thường xuyên trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh thì sẽ chiêu cảm được sáu đạo ánh sáng có công năng biến đổi sự tối tăm u ám của sáu nẻo luân hồi trở nên sáng rạng. Điều cần thiết là quý vị phải chuyên tâm trì tụng mới có thể đạt được thứ Tam-muội này. Bấy giờ, ánh sáng không chỉ chiếu khắp trong sáu nẻo luân hồi, mà cả mười Pháp giới cũng biến thành “quang minh tạng”. Tôi hy vọng mọi người dù bận rộn đến đâu cũng nên nhín chút thì giờ để trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh nầy.


































.

Tuesday, November 4, 2014

Bé trai văng ra từ bụng mẹ: Ngưng truyền thức ăn qua đường tĩnh mạch - Một Thế Giới.

Sưu tầm từ Một Thế Giới - Sự mầu nhiệm.
Lời dẫn: Sau khi cha mẹ bị xe tải đụng, mẹ bé bị cán, bé văng ra từ trong bụng mẹ. Mẹ bé mất, cha bị thương tật mất một chân phải. Bé cũng bị cắt mất một chân. Tuy nhiên đây là sự mầu nhiệm, mạng của bé đã cứu lại đưọc. 
Sau nhiều ngày phải truyền thức ăn bằng dung dịch đạm qua đường tĩnh mạch, đến chiều nay (3.11), bé trai văng ra từ bụng mẹ đã được các bác sĩ Bệnh viện Nhi đồng 1, TP.HCM ngưng truyền thức ăn qua đường tĩnh mạch, chỉ cho bé ăn trực tiếp qua đường miệng.
Bé trai văng ra từ bụng mẹ đã ngưng không
truyền thức ăn qua đường tĩnh mạch (ảnh TL)
Đây là một bước tiến triển rất đáng mừng cho sức khỏe của bé trai văng ra từ bụng mẹ. Vì trong những ngày qua, khi cho bé bú sữa qua đường miệng, khả năng đáp ứng cơ thể của bé khá tốt, các bác sĩ đã liên tục tăng lượng sữa cho bé bú trực tiếp qua đường miệng.
TS.BS Nguyễn Thanh Hùng, giám đốc Bệnh viện Nhi đồng 1 cho biết, hiện mỗi ngày bé bú được 8 lần, mỗi lần bú đến 60ml sữa. Do đó, các bác sĩ đã ngưng truyền dung dịch đạm qua đường tĩnh mạch, chỉ cho bé bú sữa.
“Với lượng sữa mà bé bú trực tiếp như trên mỗi ngày là đủ, không cần phải truyền thêm dung dịch đạm qua đường tĩnh mạch. Chúng tôi vẫn đang tiếp tục theo dõi tình trạng trên, nếu bé bú tốt thì sẽ tăng dần lượng sữa, mỗi ngày có thể tăng từ 5 đến 10ml”, bác sĩ Hùng nói.
Riêng tình trạng nhiễm trùng ở vết thương nơi khớp gối phải bị tháo của bé trai văng ra từ bụng mẹ có chuyển biến tốt hơn so với những ngày trước, nhưng theo Bệnh viện Nhi đồng 1 vẫn chưa có gì đảm bảo, vết nhiễm trùng này sẽ khỏi và bé không bị các biến chứng từ vết nhiễm trùng này.
Theo bác  sĩ Ngô Ngọc Quang Minh, trưởng phòng kế hoạch tổng hợp, Bệnh viện Nhi đồng 1, TP.HCM, đối với bé sơ sinh, việc nhiễm trùng vết thương là rất khó tiên lượng. Đôi khi hôm nay vết nhiễm trùng có thể chuyển biến tốt, nhưng hôm sau có thể chuyển biến xấu do sức đề kháng của trẻ sơ sinh yếu. Điều nguy hiểm nhiễm trùng vết thương ở trẻ, nếu chuyển biến xấu có thể biến chứng sang nhiễm trùng máu hay nhiễm trùng phổi, rất nguy hiểm.
Cũng theo bác sĩ Minh, hiện bệnh viện đang cố gắng làm hết sức mình để có thể đảm bảo vết thương bị nhiễm trùng không có chuyển biến xấu.
Các bác sĩ đang tập trung sử dụng các loại kháng sinh tốt nhất để tiêm cho bé; đồng thời tiếp tục chăm sóc bé trong môi trường hồi sức đặc biệt, hạn chế người nhà vào thăm để tránh gây ra tình trạng nhiễm trùng cho bé nặng hơn.
 Hồ Quang

Saturday, November 1, 2014

Nam Mô Hồ Chí Minh.......


Đạo phật là đạo an lành, khuyên giữ giới. Không Sát sanh.

Hồ Chí Minh là tên sát sanh, một tên dziệt chủng nổi tiếng thế giới. Y giết cả triệu sinh mạng không gớm tay với vài hàng nước mắt cá sấu chảy dài phí phạm mà hôm nay lại  "Đắc Đạo" leo tuốt lên bàn thờ ngồi chễm chệ trong khi các "ngài" quỳ cung kính bái lạy.

Có ai có thể giải thích hợp tình hợp lý vu này không ? 




Read Cuộc Đời Hồ Chí Minh

































.













.

Good and Bad


Karmapa

Oct 25, 2014

Collected from Karmapa blog
Tomoe along the path of practice, it is crucial to know who we are. Are we good or bad? We may not know for sure. Pretending to know who we are when we don’t is a real difficulty.

We may think we are a good person, but that may not be true. We could be like someone who is watering a flower, and from the outside, this looks like a good thing, but actually, the person is pouring hot water on the flower. For ourselves and others, this fake good person could be more dangerous than someone, or some part of ourselves, that we know to be negative. So it’s important to examine ourselves carefully.

~The Gyalwang Karmapa Imparts the Essence of Milarepa’s Life Story












.

Friday, October 24, 2014

HH 17 Karmapa Gyalwa Ogyen Trinley Dorje - Milarepa's Song of Realization






ॐ Dược Sư Tâm Chú 藥 師 心 咒 Medicine Buddha Mantra

Dược Sư Tâm Chú (Tiếng Phạn)

Nam Mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật




Phạn ngữ - Sanskrit


Tad ya thā oṃ                        
bhai ṣaj ye bhai ṣaj ye
ma hā bhai ṣaj ye
ra ja sa mud ga te
svā hā


Phạn âm chữ Việt:
Tê qua tha - Om
Bế ka chê Bế ka chê
Maha Bế ka chê
Ra cha sa mê ga tê Sô Hà (Soa Hà)




____________________________________________


 Vi
ệt âm chữ Việt:  

Đát điệt tha -  Án 
Bệ sát thệ Bệ sát thệ
Bệ sát xả Tam một
Yết đế Tóa ha
 

Nghĩa: Cung Kính Đãnh Lễ Bậc:

Dứt Trừ các thứ khổ nơi thân tâm, Dứt Trừ Sự Chướng Ngại Giải Thoát của Thanh Văn Thừa.
Dứt Trừ Nhân các thứ khổ nơi thân tâm, Dứt Trừ Sự Chướng Ngại Giải Thoát của Duyên Giác Thừa.
Dứt Trừ vi tế hoặc, Dứt Trừ Sự Chướng Ngại Giải Thoát của Bồ Tát Thừa.
Bậc Vô Thượng Y Vương khiến các nguyện đều thành tựu.



Tibetan Buddhist Mantra - To eliminate not only pain of diseases but also help in overcoming the major inner sickness of attachment, hatred, jealousy, desire, greed and ignorance. 

The Twelve Vows of the Medicine Buddha upon attaining Enlightenment, according to the Medicine Buddha Sutra are:

To illuminate countless realms with his radiance, enabling anyone to become a Buddha just like him.
To awaken the minds of sentient beings through his light of lapis lazuli.
To provide the sentient beings with whatever material needs they require.
To correct heretical views and inspire beings toward the path of the Bodhisattva.
To help beings follow the Moral Precepts, even if they failed before.
To heal beings born with deformities, illness or other physical sufferings.
To help relieve the destitute and the sick.
To help women who wish to be reborn as men achieve their desired rebirth.
To help heal mental afflictions and delusions.
To help the oppressed be free from suffering.
To relieve those who suffer from terrible hunger and thirst.
To help clothe those who are destitute and suffering from cold and mosquitoes.










.

Shakyamuni Buddha

BIRTH
In 563 or 566 B.C.E., a prince was born to a noble family of the Shakya clan, in a very beautiful park called Lumbini Grove, which lay in the foothills of the Himalayas (in present-day southern Nepal). This beautiful park was not far from the capital city of the Shakya kingdom, Kapilavastu. The prince’s father, King Shuddhodana, named his son Siddhartha. He was a member of the Kshatriya, or royal warrior caste, and his clan lineage, the Gautamas, was ancient and pure. His mother was Mahamaya or Mayadevi, daughter of a powerful Shakya noble, Suprabuddha. Before the conception of Siddhartha, Queen Mahamaya dreamed that a white elephant, extraordinary and utterly beautiful, entered her body. Soon after the birth, soothsayers predicted that the young prince would become either a Chakravartin, a universal monarch, or an “awakened one,” a buddha. So from the very beginning of his birth, he showed signs of perfection.
PRINCEHOOD

Seven days after the birth, Queen Mahamaya died; her sister, Siddhartha’s aunt, Mahaprajapati Gautami, who was also married to King Suddhodana, thereafter raised and brought up Siddhartha like her own child, with great care and love, in the wealthy circumstances of a noble family.
His father naturally wanted his son to be his successor and provided him the very best possible education and pleasurable occupations. He tried to prevent Siddhartha from coming into contact with any religious or spiritual path in order to steer him toward becoming the next king of the Shakyas.
As a young prince, Siddhartha was fully educated and mastered the arts and sciences of his day, including even the art of war and other trainings, displaying a sharp intellect and the strength and power of a great physique. When the young prince reached the age of sixteen, he married Yashodhara and engaged in the pleasures of the world. He continued to relish the comforts of the palaces, gardens, and varieties of wealth of the royal lifestyle.
RENUNCIATION
In his late twenties, Prince Siddhartha encountered the “four signs” during excursions from the palace. They made an extremely strong impression on him. These signs were: an old man, a sick person, a corpse, and a monk or a yogin. Through them he realized that the vanity of youth, as well as one’s health, and even life, may end at any time; furthermore, he realized that the only way out of this suffering world of samsara was through finding and following the right spiritual path.
At twenty-nine, after the birth of his son, Rahula, Siddhartha left the palace and kingdom behind and engaged in an ascetic path. He became a homeless, wandering yogi, seeking the truth for the sake of all sentient beings. He began to practice, mainly under the guidance of two ascetic teachers, Arada Kalama and Rudraka Ramaputra.
ENLIGHTENMENT
When Siddhartha realized that he was not reaching his goal, liberation, he gave up the ascetic way of life and turned to meditation, deciding to seek enlightenment on his own. After six years of hardship and practicing near Nairanjana River, he began to travel and gradually came to the region of Gaya. Siddhartha went to Bodhgaya, where he sat under what was later to be known as the Bodhi-tree, vowing to exert himself in his meditation until he reached his goal of enlightenment.
After forty-nine days, at the age of thirty-five, Prince Siddhartha attained complete enlightenment, or buddhahood, overcoming all the obscurations and temptations of Mara. At this point, Siddhartha was a buddha, a fully awakened or enlightened one, and he knew that for him, there would be no further rebirth in samsaric realms.
TEACHING AND BENEFITING BEINGS
Seeing that what he had achieved was not possible to communicate directly, he remained silent for seven weeks. Buddha gave his first discourse in Deer Park in Benares, which is known as “the first turning of the wheel of dharma.” In this discourse, he taught the four noble truths, the interdependent nature, and the law of karma, at the request of Indra and Brahma. His earlier five ascetic companions became his first disciples and began to form the bhikshu (monastic) sangha. At Vulture Peak Mountain near Rajagriha, Buddha turned the second wheel of dharma, in which he taught the nature of all phenomena as being shunyata or emptiness and anatma or selflessness. There followed a period of many years of teaching at a variety of places, such as Vaishali. The teachings of this period are known as the third turning of the wheel of dharma, in which Buddha taught a variety of subjects, including the notion that all sentient beings possess tathagata-garbha – the basic heart of buddha.
Through these teachings, Buddha showed the way that leads all beings to the experience of awakening and liberation from samsara. This demonstrates clearly his limitless compassion and loving-kindness towards all beings who are looking for liberation and freedom from the realms of samsaric existences.
King Bimbisara of Magadha became a follower of Buddha and offered a monastery near Rajagriha, the capital of Magadha, which became very important historically for the development of the sangha. Buddha spent a great deal of time mainly in the region of Rajagriha and Vaishali, moving from place to place and living on alms. The number of his followers grew very fast. Buddha’s most important students were Kashyapa, Shariputra, Maudgalyayana, and Ananda. Buddha later founded orders of nuns, or bhikshuni, and had many followers and establishments in these regions.
Since he was born as the prince of the Shakyas, after his enlightenment he was known as “the Shakyamuni” or “the Sage of The Shakyas,” and from his clan name, he was later called Gautama Buddha.
During his life, his cousin, Devadatta, who had always been jealous of what Siddhartha had achieved, sought to become the head of the Buddha’s sangha or community. Devadatta planned to destroy the Buddha. Though he did not succeed, he brought about a schism among the monastic communities in Vaisali that caused great harm to the sangha’s spiritual development.
PARINIRVANA
At the age of eighty, Shakyamuni Buddha empowered his close disciple, Kashyapa, as his regent to continue the sangha’s activities. Lying on his right side and facing west, Buddha entered into parinirvana. (Other accounts and some sutras state that Buddha partook of spoiled food, which caused him to pass away.) His relics are distributed and enshrined in seven stupas and els
ewhere.

http://kagyuoffice.org/buddhism/shakyamuni-buddha/
















.

Thursday, October 23, 2014

Chú Lăng Nghiêm. Phạn Việt - Shurangama Mantra Sanskrit




Cư sĩ tại gia có tụng chú Lăng Nghiêm được không?

 Thường thì ở trong chùa chư Tăng Ni hay tụng Chú Lăng Nghiêm và Ðại Bi Thập Chú vào buổi khuya. Vậy xin hỏi không biết hàng cư sĩ tại gia chúng con có trì tụng được không?

Ðáp: Tất nhiên là được. Chỉ sợ chúng ta lười biếng không tụng trì đó thôi. Tụng kinh trì chú là điều rất tốt. Như đã nói, sở dĩ có chú Lăng Nghiêm là do Ngài A Nan bị mắc nạn Ma đăng già, nên Hóa thân Phật nói thần chú và Bồ tát Văn Thù lãnh sứ mạng tụng chú để giải nạn cho tôn giả A Nan. Chính vì lý do đó, nên trong các thiền môn thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, còn gọi là Phật giáo Phát triển ( Ðại thừa ), đều có trì tụng vào mỗi buổi khuya. Tại sao không trì tụng vào những thời điểm khác mà phải trì tụng vào buổi khuya? Trong thiền môn có hai thời khóa căn bản, gọi là nhị thời khóa tụng. Buổi tối là thời Tịnh độ, tức tụng 
Kinh A Di Ðà. Buổi khuya thì tụng năm đệ chú Lăng Nghiêm và Ðại bi thập chú. Vì buổi khuya khí trời mát mẻ trong lành và cảnh vật yên tĩnh. Thần khí con người mới ngủ thức dậy cũng tỉnh táo mạnh mẽ hơn. Thần chú có năng lực rất mạnh, nên rất thích hợp với sự định tỉnh của thời điểm nầy. Do đó, người tụng chú ngoài phần tự lực nhiếp tâm ra, còn có sức gia hộ mạnh mẽ của long thần hộ pháp.
Như thế, thì bất luận Phật tử xuất gia hay tại gia, tất cả đều có thể trì tụng được hết. Phật tử đừng có lo ngại chi cả. Ðiều quan trọng là khi trì tụng chú, chúng ta cần phải nhiếp tâm thật kỹ. Như thế, thì rất dễ nhiếp phục vọng tưởng phiền não. Phiền não vọng tưởng không có, thì ngay lúc đó tâm ta sẽ được an định thanh thoát, nhẹ nhàng. Ðó là ta đã có được hạnh phúc phước báo rất lớn vậy.

FIRST ASSEMBLY

Namaḥ sarva buddha bodhi-satve-bhyaḥ
Namaḥ saptānāṃ samyak-saṃbuddha koṭīnāṃ sa-śrāvaka saṃghānāṃ
Namo loke arhattāṃ
Namaḥ srotāpannānāṃ
Namaḥ sakṛdāgāmināṃ.
Namaḥ anāgāmināṃ.
Namo loke samyag-gatānāṃ samyak-prati-pannānāṃ
Namo devarṣiṇāṃ
Namaḥ siddha-vidyā-dhāra-rṣiṇāṃ, śāpānugraha-samarthānāṃ.
Namo brahmaṇe.  Namaḥ indrāya.
Namo bhagavate rudrāya umāpati-sahīyāya.
Namo bhagavate nārāyaṇāya,
lakṣmi paṃca-mahā-mudrā namas-kṛtāya.
Namo bhagavate mahā-kālāya, tripura-nagara-vidrāpaṇa-karāya,
adhi-muktaka śmaśāna-vāsine, mātṛ-gaṇa namas-kṛtāya.
Namo bhagavate tathāgata kulāya.
Namo bhagavate padma kulāya.
Namo bhagavate vajra kulāya.
Namo bhagavate maṇi kulāya.
Namo bhagavate gaja-kulāya.
Namo bhagavate dṛḍha-śūra-sena-pra-haraṇa-rājāya,
tathāgatāya arhate samyak-saṃbuddhāya.
Namo bhagavate amitābhāya, tathāgatāya arhate samyak-saṃbuddhāya.
Namo bhagavate akṣobhyāya, tathāgatāya arhate samyak-saṃbuddhāya.
Namo bhagavate bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabha-rājāya,
tathāgatāya arhate samyak-saṃbuddhāya.
Namo bhagavate saṃpuṣpita-sālendra-rājāya,
tathāgatāya arhate samyak-saṃbuddhāya.
Namo bhagavate śākyamunaye,
tathāgatāya arhate samyak-saṃbuddhāya.
Namo bhagavate ratna-kusuma-ketu-rājāya,
tathāgatāya arhate samyak-saṃbuddhāya.
Teṣāṃ namas-kṛtva imāṃ bhagavata stathāgatoṣṇīṣaṃ,
Sitātapatraṃ namāparājitaṃ pratyaṅgirāṃ.
Sarva bhūta-graha nigraha-karaṇīṃ.
Para vidyā cchedanīṃ.
Akālaṃ-mṭtyu pari-trāṇa-karīṃ.
Sarva bandhana mokṣaṇīṃ.
 Sarva duṣṭa duḥ-svapna nivāraṇīṃ.
Caturaśītīnāṃ graha sahsrāṇāṃ vi-dhvaṃsana-karīṃ.
Aṣṭā-viṃśatināṃ nakśatrāṇāṃ vi-dhvaṃsana-karīṃ.
Sarva śatrū nivāraṇīṃ.
Ghoraṃ duḥ-svapnānāṃ ca nāśanīṃ.
Viṣa śastra agni uttaraṇīṃ.
Aparājitaṃ mahā-ghorāṃ,
Mahā-balām mahā-caṇḍāṃ mahā-dīptaṃ mahā-tejaṃ,
Mahā-śvetām mahā-jvalaṃ mahā-balā pāṇḍara-vāsinī

Ārya-tārā bhṛkuṭīṃ ceva vijaya vajra-maleti vi-śrutāṃ,
Padmaṃkaṃ vajra-jihva ca mālā-cevāparājita,
Vajrā daṇḍīṃ viśālā ca śanta vaideva-pūjitāṃ,
Saumya-rūpaṃ mahā-śvetā,
Ārya-tārā mahā-bala aparā vjra śaṇkalā ceva,
Vajra kaumāri kulan-dharī,
Vajra hastā ca mahā-vidyā kāṃcana mālikā,
Kusuṃbhā ratna ceva vairocanā kulāthadāṃ uṣṇīṣa,
vi-jṛmbha-mānā ca savajra kanaka prabha locana,
vajrā tuṇḍī ca śvetā ca kamalākṣī śaśī-prabha,
ityete mudra gaṇā, sarve rakṣaṃ kurvantu mama sarva
satvānāṃ ca.

                                                   SECOND ASSEMBLY

Oṃ ṛṣi-gaṇa praśāstaya sarva
tathāgatoṣṇīṣāya hūṃ trūṃ.
Jambhana-kara hūṃ trūṃ.
Stambhana-kara hūṃ trūṃ.
Mohana-kara hūṃ trūṃ. 
Mathana-kara hūṃ trūṃ.
Para-vidyā saṃ-bhakṣaṇa-kara hūṃ trūṃ.
Sarva duṣṭānāṃ stambhana-kara hūṃ trūṃ.
Sarva yakṣa rākṣasa grahāṇāṃ, vi-dhvaṃsana-kara hūṃ trūṃ.
Caturaśītīnāṃ graha sahasrāṇāṃ. vi- dhvaṃsana-kara hūṃ trūṃ.
Aṣṭā-viṃśatīnāṃ nakṣatrānāṃ pra-sādana-kara hūṃ trūṃ.
Aṣṭānāṃ mahā-grahāṇāṃ utsādana-kara hūṃ trūṃ.
Rakṣa rakṣa māṃ.
Bhagavan stathāgatoṣṇīṣa
sitātapatra mahā vajroṣṇīṣa,
mahā pratyaṅgire mahā sahasra-bhuje sahasra-śīrṣe.
koṭī-śata sahasra-netre, abhedya jvalitā-taṭaka,
mahā-vjrodāra tṛ-bhuvana maṇḍala.
Oṃ svastir bhavatu māṃ mama.

THIRD ASSEMBLY

Rāja-bhayā   cora-bhayā   udaka-bhayā   agni-bhayā,
viṣa-bhayā   śastra-bhayā   para-cakra-bhayā   du-bhikṣa-bhayā,
aśani- bhayā   akāla-mṛtyu-bhayā
dharaṇī-bhūmi-kampā-bhayā   ulkā-pāta-bhayā,
rāja-daṇḍa-bhayā   suparṇi-bhayā   nāga-bhayā   vidyut-bhayā.
Deva-grahā   nāga-grahā   yakṣa-grahā   rākṣasa-grahā
preta-grahā,   piśāca-grahā   bhūta-grahā   kumbhaṇḍa-grahā
pūtana-grahā,   kaṭa-pūtana-grahā   skanda-grahā   apasmāra-grahā
utmāda-grahā,   cchāya-grahā   revati-grahā   jamika-grahā
kaṇṭha-kamini-grahā.

Ojāhāriṇyā  garbhāhāriṇyā  jātāhāriṇyā  jīvitāhāriṇya,
rudhirāhāriṇyā  vasāhāriṇyā  māṃsāhāriṇyā  medāhāriṇyā,
majjāhāriṇyā  vāntāhāriṇyā  asucyāhāriṇyā  ciccāhāriṇyā,
teṣāṃ sarveṣāṃ.
Sarva grahāṇāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi.
Pari-brajāka kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi.
Ḍāka-ḍākinī kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi
Mahā-paśupati rudra kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi.
Nārāyaṇā paṃca mahā mudrā kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi
Tatva garuḍa sahīyāya kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi
Mahā-kāla mātṛgaṇa sahīyāya kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi.
Kāpālika kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi.
Jayakarā madhukara sarvārtha-sādhaka kṛtāṃ,
vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi
Catur-bhaginī bhratṛ-paṃcama sahīyāya kṛtāṃ,
vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi.
Bhṛṅgi-riṭika nandi-keśvara gaṇapati sahīya kṛtāṃ,
vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi.

Nagna-śramaṇa kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi.
Arhanta kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi.
Vīta-rāga kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi.
Vajra-pāṇi guhyakādhipati kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi.
Rakṣa rakṣa māṃ.


FOURTH ASSEMBLY

Bhagavata stathāgatoṣīṣaṃ sitātapatraṃ namo-stute.
Asitānalārka prabha-sphuṭa vikasitātapatre.
Jva jvala dhaka-khaka vidhaka-vidhaka dara dara vidara vidara,
cchinda cchinda bhinda bhinda, hūṃ hūṃ phaṭ! phaṭ! svāhā.
Hehe phaṭ. Amogha phaṭ. Apratihata phaṭ. Vara-prada phaṭ.
Asura vidrāpaka phaṭ. Sarva deve-bhyah phaṭ. Sarva nāge-bhyaḥ phaṭ
Sarva yakṣe-bhyaḥ phaṭ. Sarva rākṣase-bhyaḥ phaṭ.
Sarva garuḍe-bhyaḥ phaṭ. Sarva gāndharve-bhyaḥ phaṭ.
Sarva asure-bhyaḥ phaṭ.  Sarva  kindare- bhyaḥ phaṭ.
Sarva mahorage- bhyaḥ phaṭ. Sarva manuṣe- bhyaḥ phaṭ.
Sarva amanuṣe- bhyaḥ phaṭ. Sarva bhūte- bhyaḥ phaṭ.
Sarva piśāce- bhyaḥ phaṭ.  Sarva kumbhaṇḍe- bhyaḥ phaṭ.
Sarva pūtane- bhyaḥ phaṭ.  Sarva kaṭa-pūtane- bhyaḥ phaṭ.
Sarva dur-laṅghite- bhyaḥ phaṭ.  Sarva duṣ-prekṣite- bhyaḥ phaṭ.
Sarva jvare- bhyaḥ phaṭ.  Sarva apasmāre- bhyaḥ phaṭ.
Sarva śramaṇe- bhyaḥ phaṭ.  Sarva tirthike- bhyaḥ phaṭ.

Sarva utmāde- bhyaḥ phaṭ.  Sarva vidyā-rājācārye- bhyaḥ phaṭ.
Jayakarā madhukara sarvārtha-sādhake- bhyaḥ phaṭ.
Sarva vidyācārye- bhyaḥ phaṭ.  Catur bhaginī- bhyaḥ phaṭ.
Vajra kaumārī  kulan-dharī  mahā-vidyā-rājebhyaḥ phaṭ.
Mahā-pratyaṅgire-bhyaḥ phaṭ.  Vajra śankalāya phaṭ.
Mahā-pratyaṅgira-rājāya phaṭ.
Mahā-kālāya mahā-mātṛ-gaṇa namas-kṛtāya phaṭ.
Veṣṇuvīye phaṭ. Brahmaṇīye phaṭ.  Agnīye phaṭ.  Mahā-kālīye phaṭ. 
Kāla-daṇḍīye phaṭ.  Indrīye phaṭ. Raudrīye phaṭ.
Cāmuṇḍīye phaṭ.  Kāla-rātrīye phaṭ..  Kāpālīye phaṭ.
Adhi-muktaka śmaśāna vāsinīye phaṭ.
Yeke-citta satva mama.


FIFTH ASSEMBLY

Duṣṭa-cittā  pāpa-cittā  raudra-cittā  vi-dveṣa  amaitra-cittā.
Utpāda-yanti  kīla-yanti  mantra-yanti  japanti juhvanti.
Ojāhārā   garbhāhārā rudhirāhārā vasāhārā,
majjāhārā  jātāhārā  jīvitāhārā  malyāhārā,
gandhāhārā  puṣpāhārā  phalāhārā  sasyāhārā.
Pāpa-cittā  duṣṭa-cittā  raudra-cittā.
Yakṣa-graha  rākṣasa-graha  preta-graha  piśāca-graha,
bhūta-graha  kumbhaṇḍa-graha  skanda-graha  utmāda-graha,
cchāya-graha  apasmāra-graha  ḍāka-ḍākinī-graha,
revati-graha  jamika-graha  śakuni-graha  mantra-nandika-graha, 
lamvika-graha  hanu kaṇṭha-pāṇi-graha.
Jvara  ekāhikā  dvaitīyakā  straitīyakā  catur-thakā.
Nitya-jvarā   viṣama-jvarā  vatikā  paittikā,
śleṣmikā san-nipatikā sarva-jvarā. 
Śirortti  ardhavabhedaka  arocaka,
akṣi-rogaṃ  nasa-rogaṃ  mukha-rogaṃ   hṛd-rogaṃ  gala-grahaṃ,
karnṇa-śūlaṃ  danta-śūlaṃ  hṛdaya-śūlaṃ  marma-śūlaṃ,
pārśva-śūlaṃ  pṛṣṭha-śūlaṃ   udara-śūlaṃ   kaṇṭī-śūlaṃ,
vasti-śūlaṃ   ūru-śūlaṃ   jāṅgha-śūlaṃ   hasta-śūlaṃ,
pāda-śūlaṃ   sarvāṅga-pratyaṅga-śūlaṃ.

Bhūta  vetāḍa  ḍāka-ḍākinī jvara.
Dadru  kāṇḍu  kiṭibhalotavai  sarpa-lohāliṅga,
śūṣatra sagara  viśa-yoga,
agni udaka mara vaira kāntāra akālaṃ-mṛtyu.
Traibuka  trai-laṭaka  vṛścika  sarpa nakula,
siṃgha  vyāghra  ṛkṣa tarakṣa mṛga,
sva-para jīva  teṣāṃ  sarveṣāṃ.
ṣitātapatraṃ  mahā-vjroṣṇīṣaṃ  mahā-pratyaṅgiraṃ.
Yāvadvā-daśa   yojanābhyantareṇa,
sīmā-bandhaṃ  karomi,  diśā-bandhaṃ  karomi,
pāra-vidyā-bandhaṃ  karomi,   tejo-bandhaṃ karomi,
hasta-bandhaṃ  karomi ,  pāda-bandhaṃ  karomi,
sarvāṅga-pratyaṅga-bandhaṃ  karomi.
Tadyathā:  Oṃ  anale  anale  viśade  viśade vīra vjra-dhare,
bandha bandhani,  vajra-pāṇi  phaṭ! hūṃ trūṃ phaṭ!  svāhā.
Namaḥ  stathāgatāya  sugatāya  arhate  samyak-saṃbuddhāya,

siddhyantu   mantra-pada   svāhā.






THẦN CHÚ LĂNG NGHIÊM

Nam-Mô-Lăng-Nghiêm Hội-Thượng Phật Bồ Tát ( 3 lần )
Diệu trạm tổng trì bất động tôn,
Thủ-Lăng-Nghiêm-Vương thế hi hữu,
Tiêu Ngã ức kiếp điên-đảo tưởng.
Bất lịch tăng-kỳ hoạch pháp thân,
Nguyện kim đắc quả thành bảo-vương,
Hườn độ như thị hằng sa chúng,
Tương thử thâm tâm phụng trần sát,
Thị tắc danh vị báo Phật ân:
Phục thỉnh Thế-Tôn vị chứng minh,
Ngũ-trược ác-thế thệ tiên nhập,
Như nhứt chúng sanh vị thành Phật,
Chung bất ư thử thủ nê-hoàn.
Đại –hùng đại -lực đại -từ-bi,
Hi cánh thẩm trừ vi-tế hoặc,
Linh ngã tảo đăng vô -thượng giác,
Ư thập phương giới tọa đạo tràng ;
Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong,
Thước –ca –ra tâm vô động chuyển.
Nam-mô thường-trụ thập-phương Phật.
Nam-mô thường-trụ thập-phương Pháp.
Nam-mô thường-trụ thập-phương Tăng.
Nam-mô Thích-Ca Mâu-Ni Phật.
Nam-mô Phật Đảnh Thủ-Lăng-Nghiêm.
Nam-mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
Nam-mô Kim-Cang-Tạng Bồ-Tát.
Nhĩ thời Thế-Tôn,
Tùng nhục-kế trung,
Dõng bá bảo-quang,
Quang trung dõng xuất ,
Thiên diệp bảo liên,
Hữu hóa Như-Lai,
Tọa bảo hoa trung,
Đảnh phóng thập đạo,
Bá bảo quang-minh,
Nhứt nhứt quang-minh,
Giai biến thị hiện,
Thập hằng hà sa,
Kim-Cang mật tích,
Kình sơn trì sử,
Biến hư-không giới,
Đại chúng ngưỡng quan,
Ủy ái kiêm bảo,
Cầu Phật ai hựu,
Nhứt tâm thính Phật,
Vô-kiến đảnh tướng ,
Phóng quang như La-Lai,
Tuyên thuyết thần chú:


Đệ Nhất

01. Nam-mô tát đát tha
02. Tô già đa da
03. A ra ha đế
04. Tam-miệu tam bồ đà tỏa
05. Nam mô tát đát tha
06. Phật đà cu tri sắc ni sam
07. Nam-mô tát bà
08. Bột đà bột địa
09. Tát đa bệ tệ
10. Nam-mô tát đa nẩm
11. Tam-miệu tam bồ đà
12. Cu tri nẩm
13. Ta xá ra bà ca
14. Tăng già nẩm
15. Nam-mô lô kê A-La-Hán đa nẩm.
16. Nam-mô tô lô đa ba na nẩm.
17. Nam-mô ta yết rị đà dà di nẩm.
18. Nam-mô lô kê tam-miệu dà đa nẩm.
19. Tam-miệu dà ba ra
20. Ðể ba đa na nẩm.
21. Nam-mô đề bà ly sắc nỏa.
22. Nam-mô tất đà da
23. Tỳ địa da
24. Ðà ra ly sắc nỏa.
25. Xá ba noa
26. Yết ra ha
27. Ta ha ta ra ma tha nẩm
28. Nam-mô bạt ra ha ma ni
29. Nam-mô nhơn dà ra da
30. Nam-mô bà dà bà đế
31. Lô đà ra da.
32. Ô ma bát đế
33. Ta hê dạ da.
34. Nam-mô bà dà bà đế
35. Na ra dả
36. Noa da
37. Bàn dá ma ha tam mộ đà da
38. Nam-mô tất yết rị đa da
39. Nam-mô bà dà bà đế
40. Ma ha ca ra da
41. Ðịa rị bác lặc na
42. Dà ra tỳ đà ra
43. Ba noa ca ra da.
44. A địa mục đế
45. Thi ma xá na nê
46. Bà tất nê
47. Ma đát rị dà noa
48. Nam-mô tất yết rị đa da
49. Nam-mô bà dà bà đế
50. Ða tha dà đa câu ra da
51. Nam-mô bát đầu ma câu ra da.
52. Nam-mô bạc xà ra câu ra da.
53. Nam-mô ma ni câu ra da
54. Nam-mô dà xà câu ra da
55. Nam-mô bà dà bà đế
56. Ðế rị trà
57. Du ra tây na.
58. Ba ra ha ra noa ra xà da
59. Ða tha dà đa da
60. Nam-mô bà dà bà đế
61. Nam-mô A di đa bà da
62. Ða tha dà đa da
63. A ra ha đế.
64. Tam-miệu tam bồ đà da
65. Nam-mô bà dà bà đế
66. A sô bệ da
67. Ða tha dà đa da
68. A ra ha đế
69. Tam-miệu tam bồ đà da
70. Nam-mô bà dà bà đế
71. Bệ xa xà da
72. Câu lô phệ trụ rị da
73. Bác ra bà ra xà da
74. Ða tha dà đa da.
75. Nam-mô bà dà bà đế
76. Tam bổ sư bí đa
77. Tát lân nại ra lặc xà da
78. Ða tha dà đa da
79. A ra ha đế
80. Tam-miệu tam bồ đà da
81. Nam-mô bà dà bà đế
82. Xá kê dã mẫu na duệ
83. Ða tha dà đa da
84. A ra ha đế
85. Tam-miệu tam bồ đà da
86. Nam-mô bà dà bà đế
87. Lặc đát na kê đô ra xà da
88. Ða tha dà đa da
89. A ra ha đế
90. Tam-miệu tam bồ đà da
91. Ðế biều
92. Nam-mô tát yết rị đa
93. ế đàm bà dà bà đa
94. Tát đác tha dà đô sắc ni sam
95. Tát đác đa bát đác lam
96. Nam-mô a bà ra thị đam
97. Bác ra đế
98. Dương kỳ ra
99. Tát ra bà
100. Bộ đa yết ra ha
101. Ni yết ra ha
102. Yết ca ra ha ni
103. Bạt ra bí địa da
104. Sất đà nể
105. A ca ra
106. Mật rị trụ
107. Bát rị đác ra da
108. Nảnh yết rị
109. Tát ra bà
110. Bàn đà na
111. Mục xoa ni
112. Tát ra bà
113. Ðột sắc tra
114. Ðột tất phạp
115. Bát na nể
116. Phạt ra ni
117. Giả đô ra
118. Thất đế nẩm
119. Yết ra ha
120. Ta ha tát ra nhã xà
121. Tỳ đa băng ta na yết rị
122. A sắc tra băng xá đế nẩm
123. Na xoa sát đác ra nhã xà
124. Ba ra tát đà na yết rị
125. A sắc tra nẩm
126. Ma ha yết ra ha nhã xà
127. Tỳ đa băng tát na yết rị
128. Tát bà xá đô lô
129. Nể bà ra nhã xà
130. Hô lam đột tất phạp
131. Nan giá na xá ni
132. Bí sa xá
133. Tất đác ra
134. A kiết ni
135. Ô đà ca ra nhã xà
136. A bát ra thị đa câu ra
137. Ma ha bác ra chiến trì
138. Ma ha điệp đa
139. Ma ha đế xà
140 Ma ha thuế đa xà bà ra
141. Ma ha bạt ra bàn đà ra
142. Bà tất nể
143. A rị da đa ra
144. Tỳ rị câu tri
145. Thệ bà tỳ xà da
146. Bạt xà ra ma lễ để
147. Tỳ xá lô đa
148. Bột đằng dõng ca
149. Bạt xà ra chế hắt na a giá
150. Ma ra chế bà
151. Bát ra chất đa
152. Bạt xà ra thiện trì
153. Tỳ xá ra giá
154. Phiến đa xá
155. Bệ để bà
156. Bổ thị đa
157. Tô ma lô ba
158. Ma ha thuế đa
159. A rị da đa ra
160. Ma ha bà ra a bác ra
161. Bạt xà ra thương yết ra chế bà
162. Bạt xà ra câu ma rị
163. Câu lam đà rị
164. Bạt xà ra hắt tát đa giá
165. Tỳ địa da
166. Kiền dá na
167. Ma rị ca
168. Khuất tô mẫu
169. Bà yết ra đá na
170. Bệ lô giá na
171. Câu rị da
172. Dạ ra thố
173. Sắc ni sam
174. Tỳ chiếc lam bà ma ni giá.
175. Bạt xà ra ca na ca ba ra bà.
176. Lồ xà na
177. Bạt xà ra đốn trỉ giá
178. Thuế đa giá
179. Ca ma ra
180. Sát sa thi
181. Ba ra bà.
182. ế đế di đế
183. Mẫu đà ra
184. Yết noa.
185. Ta bệ ra sám
186. Quật phạm đô
187. ấn thố na mạ mạ tỏa.
Ðệ Nhị
188. Ô Hồng
189. Rị sắc yết noa
190. Bác lặc xá tất đa
191. Tát đác tha
192. Già đô sắc ni sam
193. Hổ hồng đô lô ung
194. Chiêm bà na
195. Hổ hồng đô lô ung
196. Tất đam bà na
197. Hổ hồng đô lô ung
198. Ba ra sắc địa da
199. Tam bác xoa
200. Noa yết ra
201. Hổ hồng đô lô ung
202. Tát bà dược xoa
203. Hắt ra sát ta
204. Yết ra ha nhã xà
205. Tỳ đằng băng tát na yết ra
206. Hổ hồng đô lô ung
207. Giả đô ra
208. Thi để nẩm
209. Yết ra ha
210. Ta ha tát ra nẩm
211. Tỳ đằng băng tát na ra
212. Hổ hồng đô lô ung
213. Ra xoa
214. Bà già phạm
215. Tát đác tha
216. Già đô sắc ni sam
217. Ba ra điểm
218. Xà kiết rị
219. Ma ha ta ha tát ra
220. Bột thọ ta ha tát ra
221. Thất rị sa
222. Câu tri ta ha tát nê
223. Ðế lệ a tệ đề thị bà rị đa
224. Tra tra anh ca
225. Ma ha bạt xà lô đà ra
226. Ðế rị bồ bà na
227. Man trà ra
228. Ô hồng
229. Ta tất đế
230. Bạt bà đô
231. Mạ mạ
232. ấn thố na mạ mạ tỏa.
Ðệ Tam
233. Ra xà bà dạ
234. Chủ ra bạt dạ
235. A kỳ ni bà dạ
236. Ô đà ca bà dạ
237. Tỳ xa bà dạ
238. Xá tát đa ra bà dạ
239. Bà ra chước yết ra bà dạ
240. Ðột sắc xoa bà dạ
241. A xá nể bà dạ
242. A ca ra
243. Mật rị trụ bà dạ
244. Ðà ra nị bộ di kiếm
245. Ba già ba đà bà dạ
246. Ô ra ca bà đa bà dạ
247. Lặc xà đàn trà bà dạ
248. Na dà bà dạ
249. Tỳ điều đát bà dạ
250. Tô ba ra noa bà dạ
251. Dược xoa yết ra ha
252. Ra xoa tư yết ra ha
253. Tất rị đa yết ra ha
254. Tỳ xá giá yết ra ha
255. Bô đa yết ra ha
256. Cưu bàn trà yết ra ha
257. Bổ đơn na yết ra ha
258. Ca tra bổ đơn na yết ra ha
259. Tất kiền độ yết ra ha
260. A bá tất ma ra yết ra ha
261. Ô đàn ma đà yết ra ha
262. Xa dạ yết ra ha
263. Hê rị bà đế yết ra ha
264. Xả đa ha rị nẩm
265. Yết bà ha rị nẩm
266. Lô địa ra ha rị nẩm
267. Mang ta ha rị nẩm
268. Mê đà ha rị nẩm
269. Ma xà ha rị nẩm
270. Xà đa ha rị nữ
271. Thị tỷ đa ha rị nẩm
272. Tỳ đa ha rị nẩm
273. Bà đa ha rị nẩm
274. A du giá ha rị nữ
275. Chất đa ha rị nữ
276. Ðế sam tát bệ sam
277. Tát bà yết ra ha nẩm
278. Tỳ đà dạ xà
279. Sân đà dạ di
280. Kê ra dạ di
281. Ba rị bạt ra giả ca
282. Hất rị đởm
283. Tỳ đà dạ xà
284. Sân đà dạ di
285. Kê ra dạ di
286. Trà diễn ni
287. Hất rị đởm
288. Tỳ đà dạ xà
289. Sân đà dạ di
290. Kê ra dạ di
291. Ma ha bát du bát đác dạ
292. Lô đà ra
293. Hất rị đởm
294. Tỳ đà dạ xà
295. Sân đà dạ di
296. Kê ra dạ di
297. Na ra dạ noa
298. Hất rị đởm
299. Tỳ đà dạ xà
300. Sân đà dạ di
301. Kê ra dạ di
302. Ðát đỏa dà lô trà tây
303. Hất rị đởm
304. Tỳ đà dạ xà
305. Sân đà dạ di
306. Kê ra dạ di
307. Ma ha ca ra
308. Ma đác rị già noa
309. Hất rị đởm
310. Tỳ đà dạ xà
311. Sân đà dạ di
312. Kê ra dạ di
313. Ca ba rị ca
314. Hất rị đởm
315. Tỳ đà dạ xà
316. Sân đà dạ di.
317. Kê ra dạ di
318. Xà dạ yết ra
319. Ma độ yết ra
320. Tát bà ra tha ta đạt na
321. Hất rị đởm
322. Tỳ đà dạ xà
323. Sân dà dạ di
324. Kê ra dạ di
325. Giả đốt ra
326. Bà kỳ nể
327. Hất rị đởm
328. Tỳ đà dạ xà
329. Sân đà dạ di
330. Kê ra dạ di
331. Tỳ rị dương hất rị tri
332. Nan đà kê sa ra
333. Dà noa bác đế
334. Sách hê dạ
335. Hất rị đởm
336. Tỳ đà dạ xà
337. Sân đà dạ di
338. Kê ra dạ di
339. Na yết na xá ra bà noa
340. Hất rị đởm
341. Tỳ đà dạ xà
342. Sân đà dạ di
343. Kê ra dạ di
344. A-la-hán
345. Hất rị đởm
346. Tỳ đà dạ xà
347. Sân đà dạ di
348. Kê ra dạ di
349. Tỳ đa ra dà
350. Hất rị đởm
351. Tỳ đà dạ xà
352. Sân đà dạ di
353. Kê ra dạ di
354. Bạt xà ra ba nể
355. Câu hê dạ câu hê dạ
356. Ca địa bát đế
357. Hất rị đởm
358. Tỳ đà dạ xà
359. Sân đà dạ di
360. Kê ra dạ di
361. Ra xoa vỏng
362. Bà dà phạm
363. ấn thố na mạ mạ tỏa
Ðệ Tứ
364. Bà dà phạm
365. Tát đác đa bát đác ra
366. Nam-mô tý đô đế
367. A tất đa na ra lặc ca
368. Ba ra bà
369. Tất phổ tra
370. Tỳ ca tát đác đa bát đế rị
371. Thập Phật ra thập Phật ra
372. Ðà ra đà ra
373. Tần đà ra tần đà ra
374. Sân đà sân đà
375. Hổ hồng hổ hồng.
376. Phấn tra phấn tra phấn tra phấn tra phấn tra.
377. Ta ha
378. Hê hê phấn
379. A mâu ca da phấn
380. A ba ra đề ha da phấn
381. Ba ra bà ra đà phấn
382. A tố ra
383. Tỳ đà ra
384. Ba ca phấn
385. Tát bà đề bệ tệ phấn
386. Tát bà na dà tệ phấn
387. Tát bà dược xoa tệ phấn
388. Tát bà kiền thát bà tệ phấn
389. Tát bà bổ đơn na tệ phấn
390. Ca tra bổ đơn na tệ phấn
391. Tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn.
392. Tát bà đột sáp tỷ lê
393. Hất sắc đế tệ phấn
394. Tát bà thập bà lê tệ phấn
395. Tát bà a bá tất ma lê tệ phấn
396. Tát bà xá ra bà noa tệ phấn.
397. Tát bà địa đế kê tệ phấn
398. Tát bà đát ma đà kê tệ phấn
399. Tát bà tệ đà da
400. Ra thệ giá lê tệ phấn
401. Xà dạ yết ra
402. Ma độ yết ra
403. Tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn.
404. Tỳ địa dạ
405. Giá lê tệ phấn
406. Giả đô ra
407. Phược kỳ nể tệ phấn
408. Bạt xà ra
409. Câu ma rị;
410. Tỳ đà dạ
411. La thệ tệ phấn
412. Ma ha ba ra đinh dương
413. Xoa kỳ rị tệ phấn
414. Bạt xà ra thương yết ra dạ
415. Ba ra trượng kỳ ra xà da phấn
416. Ma ha ca ra dạ
417. Ma ha mạt đát rị ca noa
418. Nam-mô ta yết rị đa da phấn.
419. Tỷ sắc noa tỳ duệ phấn
420. Bột ra ha mâu ni duệ phấn
421. A kỳ ni duệ phấn
422. Ma ha yết rị duệ phấn
423. yết ra đàn tri duệ phấn
424. Miệc đát rị duệ phấn
425. Lao đát rị duệ phấn
426. Giá văn trà duệ phấn
427. Yết la ra đác rị duệ phấn.
428. Ca bát rị duệ phấn
429. A địa mục chất đa
430. Ca thi ma xá na
431. Bà tư nể duệ phấn
432. Diễn kiết chất
433. Tát đỏa bà tỏa
434. Mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.
Ðệ Ngũ
435. Ðột sắc tra chất đa
436. A mạt đác rị chất đa
437. Ô xà ha ra
438. Dà ba ha ra
439. Lô địa ra ha ra
440. Ta bà ha ra
441. Ma xà ha ra
442. Xà đa ha ra
443. Thị tỉ đa ha ra
444. Bạt lược dạ ha ra
445. Kiền đà ha ra
446. Bố sữ ba ha ra
447. Phả ra ha ra
448. Bà tả ha ra
449. Bát ba chất đa
450. Ðột sắc tra chất đa.
451. Lao đà ra chất đa
452. Dược xoa yết ra ha
453. Ra sát ta yết ra ha
454. Bế lệ đa yết ra ha
455. Tỳ xá giá yết ra ha
456. Bộ đa yết ra ha
457. Cưu bàn trà yết ra ha
458. Tất kiền đà yết ra ha
459. Ô đát ma đà yết ra ha
460. Xa dạ yết ra ha
461. A bá tất ma ra yết ra ha.
462. Trạch khê cách
463. Trà kỳ ni yết ra ha
464. Rị Phật đế yết ra ha
465. Xà di ca yết ra ha
466. Xá câu ni yết ra ha
467. Lao đà ra
468. Nan địa ca yết ra ha
469. A lam bà yết ra ha
470. Kiền độ ba ni yết ra ha
471. Thập phạt ra
472. Yên ca hê ca
473. Trị đế dược ca
474. Ðát lệ đế dược ca
475. Giả đột thác ca
476. Ni đề thập phạt ra
477. Tỉ sam ma thập phạt ra
478. Bạt để ca
479. Tỷ để ca
480. Thất lệ sắc mật ca
481. Ta nể bát để ca
482. Tát bà thập phạt ra
483. Thất lô kiết đế
484. Mạt đà bệ đạt lô chế kiếm
485. A ỷ lô kiềm
486. Mục khê lô kiềm
487. Yết rị đột lô kiềm
488. Yết ra ha
489. Yết lam yết noa du lam
490. Ðản đa du lam
491. Hất rị dạ du lam
492. Mạt mạ du lam
493. Bạt rị thất bà du lam
494. Tỷ lật sắc tra du lam
495. Ô đà ra du lam
496. Yết tri du lam
497. Bạt tất đế du lam
498. Ô lô du lam
499. Thường dà du lam
500. Hắc tất đa du lam
501. Bạt đà du lam
502. Ta phòng án dà
503. Bát ra trượng dà du lam
504. Bộ đa tỷ đa trà
505. Trà kỳ ni
506. Thập bà ra
507. Ðà đột lô ca
508. Kiến đốt lô kiết tri
509. Bà lộ đa tỳ
510. Tát bát lô
511. Ha lăng già
512. Du sa đát ra
513. Ta na yết ra
514. Tỳ sa dụ ca
515. A kỳ ni
516. Ô đà ca
517. Mạt ra bệ ra
518. Kiến đa ra
519. A ca ra
520. Mật rị đốt
521. Ðát liểm bộ ca
522. Ðịa lật lặc tra
523. Tỷ rị sắc chất ca
524. Tát bà na câu ra
525. Tứ dẫn dà tệ
526. Yết ra rị dược xoa
527. Ðác ra sô
528. Mạt ra thị
529. Phệ đế sam
530. Ta bệ sam
531. Tất đát đa bát đác ra
532. Ma ha bạt xà lô
533. Sắc ni sam
534. Ma ha bát lặc trượng kỳ lam
535. Dạ ba đột đà
536. Xá dụ xà na
537. Biện đát lệ noa
538. Tỳ đà da
539. Bàn đàm ca lô di
540. Ðế thù
541. Bàn đàm ca lô di
542. Bát ra tỳ đà
543. Bàn đàm ca lô di
544. Ðát điệt tha
Án a na lệ, tỳ xá đề bệ ra bạc xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàn ni phấn. Hổ hồng đô lô ung phấn, ta bà ha.

Nam Mô A Di đà Phật.
Nam-Mô-Lăng-Nghiêm Hội-Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)













.